I. Ung thư vú là gì?
- Ung thư vú là các tế bào bất thường gọi là tế
bào ung thư phát triển từ những tế bào ống (duct) hay những tế bào nang
(lobule) của vú. Nếu không chữa trị sớm, các tế bào ung thư sẽ phát triển nhanh
chóng trong vú, đi vào các mạch máu hay mạch bạch huyết, chạy tới các hạch, và
có thể lây lan đến các bộ phận khác, gây ra đau đớn, tắc nghẽn cho cơ thể và
cuối cùng mang đến sự chết. Ung thư vú đứng hàng đầu trong những loại ung
thư phụ nữ Việt thường mắc phải.
-Tiếp theo, chúng tôi sẽ trình bày
một số yếu tố đưa đến sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Tuy nhiên, đa số
phụ nữ mắc bệnh ung thư vú không có những yếu tố gia tăng nguy cơ mắc
bệnh ung thư vú. Chúng ta cần nhớ là tất cả phụ nữ đều có nguy cơ mắc bệnh
ung thư vú. Điều quan trọng là phát hiện sớm bệnh ung thư vú khi
bệnh này còn có thể được chữa lành hoàn toàn.
II. Các nguyên nhân và yếu tố gây nguy cơ mắc
bệnh ung
thư vú cao
1. Ung thư vú liên quan đến tuổi tác
- Càng lớn tuổi thì nguy cơ ung thư
vú càng cao. Phần lớn phụ nữ da trắng mắc bệnh ung thư vú ở tuổi 50 đến
60. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy phụ nữ gốc Việt tại Hoa Kỳ mắc bệnh ung
thư vú ở số tuổi trung bình là 40 đến 50, tức là trẻ hơn 10 năm so với phụ
nữ da trắng. Lý do của sự khác biệt này chưa làm sáng tỏ và sẽ là đề tài cho
những cuộc nghiên cứu sau này về ảnh hưởng di truyền cũng như môi sinh trên
nguy cơ mắc bệnh ung thư của các sắc dân khác nhau.
2. Ung thư vú do tiểu sử bệnh lý gia
đình
- Những phụ nữ có mẹ, chị, em, hay
con gái đã mắc bệnh ung thư vú thì nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Càng có nhiều thân nhân
mắc bệnh ung thư vú thì nguy cơ càng gia tăng.
- Hết kinh sau tuổi 55 .
- Có kinh trước tuổi 12 .
3. Ung thư vú do dinh dưỡng và rượu
- Ăn thức ăn nhiều mỡ, cũng như rượu
có thể làm gia tăng cơ hội mắc bệnh ung thư vú. National Cancer Institute (Viện Ung Thư Hoa Kỳ) khuyến khích phụ nữ nên
dùng thức ăn ít mỡ, tập thể dục đều đặn, và chỉ nên dùng rượu có chừng mực.
4.Ung thư vú do sử dụng kích thích tố
nữ sau khi tắt kinh trên năm năm
- Những cuộc nghiên cứu mới nhất cho
thấy phụ nữ dùng các loại thuốc như Prempro, Provera hay Premarin sau khi tắt
kinh có thể làm gia tăng cơ hội mắc bệnh ung thư vú. Ngoài ra, những loại thuốc
này còn có thể gia tăng cơ hội bị tai biến mạch máu não và nghẹt động mạch vành
tim gây ra chứng máu nhồi cơ tim. Những loại thuốc này thường được dùng để giúp
các bệnh nhân sau khi tắt kinh đỡ bị cáu kỉnh, buồn chán, nóng bừng, khi nóng
khi lạnh, và đổ mồ hôi vào ban đêm. Nếu phụ nữ nào bị những chứng này thì có
thể sử dụng những loại thuốc vừa nêu trên trong một thời kỳ ngắn, rồi từ từ
ngưng lại khi cơ thể đã quen với sự tắt kinh. Nếu chỉ dùng thuốc trong thời
gian ngắn, thì ta có thể giảm thiểu những triệu chứng trong những ngày tháng
đầu của tắt kinh, mà cũng tránh gia tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
5. Ung thư vú do yếu tố di truyền
- Phần lớn phụ nữ mắc bệnh ung thư vú
không có yếu tố di truyền, và bệnh sử gia đình cũng không có ai mắc bất cứ loại
ung thư nào cả. Tuy nhiên, có khoảng 15% phụ nữ mắc bệnh ung
thư vú mang những yếu tố di truyền về ung thư gọi là BRCA 1 hay BRCA 2. Những
phụ nữ này có những vấn đề đặc biệt riêng trong việc truy tầm, phòng ngừa, cũng
như chữa trị ung thư vú, không nằm trong phạm vi của bài viết này.
III. Một số biểu hiện của bệnh ung thư vú
1. Nửa người trên bị đau
Biểu hiện đầu tiên là người bệnh
thường xuyên cảm thấy đau nửa người trên. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là
do các lớp biểu bì bị căng cứng. Chính các u nang hoặc sự thay đổi hooc-mon dẫn
đến sự căng cứng này.
2. Vú to lên
Vú to lên có thể là dấu hiệu của bệnh
u xơ lành tính. Bệnh này có thể làm thay đổi cấu trúc của ngực. Tuy nhiên, các
khối u ác tính phát triển cũng có thể là nguyên nhân làm cho vú to lên bất
thường. Có 2 giả thiết được đặt ra:
+ Các hạch ung thư phát triển khiến
kích cỡ của vú thay đổi.
+ Các tế bào ung thư phát triển gây
viêm nhiễm.
3. Một trong hai đầu nhũ hoa bị thụt
vào trong
Nhũ hoa bị thụt vào trong có thể là
triệu chứng của 1 khối u nằm ngay phía sau (do các tế bào ung thư kéo lớp biểu
bì vào phía trong).
Trong trường hợp có u, nhũ hoa bị
thụt vào trong sẽ trở nên cứng. Ngay cả khi dùng tay, bệnh nhân cũng không thể
kéo nhũ hoa này ra được.
4. Có hạch dưới nách
Hạch dưới nách có thể là do sức đề
kháng của cơ thể tạo ra nhưng cũng có thể là một khối u phát triển theo hệ
hạch.
Hạch dưới nách là giai đoạn đầu tiên
của bước phát triển khối u, đôi khi nó cũng là dấu hiệu đầu tiên của bệnh.
5. Có u ở núi đôi
Xuất hiện u ở núi đôi là hiện tượng
bất thường. Đó có thể là u lành tính hoặc u nang; hạch hay u ác tính.
Làm thế nào để biết đó là hạch? Nhìn
chung, hạch thường nằm ở bên cạnh vú, gần nách; màu sắc ở vùng da nổi hạch ít
có sự thay đổi mà chỉ thấy nổi cục.
6. Da núi đôi thay đổi
Làn da của núi đôi thay đổi có thể là
do u xơ lành tính hoặc do các khối u ác tính. Các lớp biểu bì da có cùng cấu
trúc với tuyến vú, do đó các lớp biểu bì này sẽ có sự phát triển bất thường
cùng với các tế bào u ác tính.
Biểu hiện dễ thấy nhất là da của núi
đôi nhăn nheo hoặc nổi hạt.
7. Xuất hiện bệnh eczama
Khi bị bệnh eczama thông thường,
người bệnh cảm thấy ngứa hoặc bị dị ứng. Đây không phải là triệu chứng của bệnh
ung thư. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đây là là dấu hiệu của bệnh ung thư
vú.
Khi bệnh eczama xuất hiện ở nhũ hoa
thì bạn cần phải chú ý. Nếu đầu nhũ hoa bị lở loét và có vẩy nến thì có thể là
do:
+ Khối u phát triển lên bề mặt da
+ Khối u của da phát triển trong núi
đôi.
Ngay khi phát hiện một trong những
triệu chứng trên, bệnh nhân cần: Khám bác sỹ trong 2 tuần. Bác sỹ sẽ cho chụp
tia X vú hoặc lập biểu đồ sinh thái của vú.
Nếu phát hiện sớm thì khả năng khỏi
bệnh là rất cao hoặc bệnh nhân kéo dài tuổi thọ. Nếu để bệnh vào giai đoạn muộn
thì khả năng tử vong là rất cao.
IV. Các giai đoạn của bệnh ung thư vú
• Giai đoạn 1
- Khi ung thư vú còn bị giới hạn trong ống dẫn sữa (ductal in situ) mà chưa ăn vào nhũng
mô vú hay mô nâng bỡ bên ngoài ống dẫn sữa. Cơ hội có thể chữa lành của thời kỳ
này từ 90% đến 100% bằng giải phẫu toàn phần vú, hay một phần vú cộng với xạ
trị (radiation). Có nhiều trường hợp, bác sĩ còn cho bệnh nhân dùng thêm thuốc
loại kích thích tố như tamoxifen.
• Giai đoạn 2
- Khi ung thư vú còn nhỏ hơn 2 cm và chưa lan vào hạch nách. Cơ hội
sống còn sau mười năm là khoảng 80% đến 90%. Cách chữa cũng tương tự như thời
kỳ 0, nhưng một số bệnh nhân có thể được khuyên nên sử dụng thêm hóa chất trị
liệu (chemotherapy). Ngoài ra, các phụ nữ đã tắt kinh còn có thể được dùng một
loại thuốc gọi là Aromatase Inhibitor như Arimidex, Letrozole, hay Aromasin
thay vì tamoxifen. Đây cũng là thuốc loại kích thích tố.
• Giai đoạn 3
- Khi ung thư vú từ 2 cm đến 5 cm và chưa lan vào hạch nách, hay nhỏ hơn hơn 5 cm và đã
lan vào một số hạch nách. Cơ hội sống còn sau mười năm tùy thuộc vào kích thước
của ung thư và bao nhiêu hạch bị lây lan. Cách chữa cũng tương tự như thời kỳ
I, nhưng phần lớn bệnh nhân được khuyên nên sử dụng thêm hóa chất trị liệu
(chemotherapy), nhất là những ung thư lớn hay đã vào hạch nách.
- Khi ung thư vú lớn hơn 5cm hay đã
lan vào nhiều hạch nách nhưng chưa lây lan đi xa. Cơ hội sống còn sau mười năm
tùy thuộc vào kích thước của ung thư và bao nhiêu hạch bị lây lan. Đây là thời
kỳ khá trễ và có cơ hội mắc bệnh ung thư vú trở lại hay lây lan qua các bộ phận khác rất cao. Cách
chữa thường bắt đầu bằng hóa chất trị liệu (chemotherapy), sau đó là giải phẫu
và xạ trị.
• Giai đoạn 4
- Ung thư vú đã lây lan ra tới các bộ phận như gan, phổi, xương, não, v.v. Ở thời kỳ
này, trừ những trường hợp rất đặc biệt, bệnh nhân có nguy cơ mất mạng vì bệnh
trong vòng năm năm rất cao. Cách chữa thường là với hóa chất hay thuốc loại
kích thích tố.
Như ta thấy trên đây, ung thư vú
được khám phá càng sớm bao nhiêu thì cơ hội sống còn càng cao bấy nhiêu. Do đó,
tất cả phụ nữ nên quan tâm đến vấn đề truy tầm ung thư vú và theo lời
khuyên truy tầm ung thư vú như trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét